VĂN HÓA ĐỐT VÀNG MÃ

 VĂN HÓA ĐỐT VÀNG MÃ

Bạn cho rằng việc đốt vàng mã trong những dịp tưởng nhớ người đã khuất là đúng hay sai? 
Bạn có chắc chắn rằng đây là hành động mê tín dị đoan, chả có ích lợi gì còn kéo theo nhiều hệ lụy về môi trường, sức khỏe? Đối với khoa học nó càng vô lý, không thể biến những vật dụng, đồ dùng bằng "giấy" thành vật dụng, tài sản ở bên kia thế giới, chỉ bằng việc đốt nó...! Bây giờ chỉ cần tìm kiếm từ khóa "vàng mã" ! chúng ta thấy toàn lên án, đây là hành động lãng phí tài chính, ảnh hưởng môi trường, sức khỏe từ rất nhiều các bài viết. Nếu vậy tại sao, nhiều người lại tin vào điều đó? 

Có một sự thật cần suy ngẫm là một bộ phận số đông người làm kinh doanh hoặc những gia đình giàu có, thì niềm tin đốt vàng mã cho người đã khuất, càng thể hiện rõ qua những dịp lễ, đám, giỗ... cúng kiếng linh đình, đốt biệt thự, nhà lầu, xe hơi... thậm chí đốt cả những công trình bằng giấy với kích thước như thật. Chả lẽ những người này không có kiến thức khoa học, hay họ dư tiền quá không biết làm gì? Tôi từng suy nghĩ có lẽ là họ phô trương sự giàu có của mình, nhưng ngẫm lại cũng không đúng... có nhiều người khi tiếp xúc với họ, thấy họ rất kiêm tốn, vậy tại sao họ lại làm vậy?

Tôi có dịp đến thăm một ngôi thiền viện khá đẹp trên núi Châu Long Châu Viên của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Trong cảnh vật thiên nhiên giữa núi rừng yên tĩnh, cảm giác thật yên bình và trang nghiêm. Lướt mắt qua một vòng sân chùa, tôi thấy nơi đây có một chung lớn đặt ở một góc sân. Nó thu hút tôi bởi sự cháy xén đen đúa nhưng uy nghi, to lớn giữa một khoản không trống trải. Dòng chữ vàng trên nền đỏ hiện rõ "Chung hóa vàng". Tại sao ngôi chùa này lại có "Chung hóa vàng". Tôi nghe đâu đó các vị sư thầy đều khuyến khích phật tử không nên đốt giấy áo giấy tiền, một ngôi thiền viện để tu học trí tuệ tại sao lại để cho phật tử "hóa vàng" không lẽ các thiền sư nơi đây ủng hộ chuyện này? Tò mò, thắc mắc tôi liền trao hết những câu hỏi này cho vị thiền sư quản lý ngôi thiền viện. Ngồi trên chiếc ghế tròn được làm từ những phiếm đá, cùng chiếc bàn cũng bằng đá giữa lưng chừng núi phía hậu viên của chùa. Vị thiền sư mỉm cười uống một ngụm trà rồi nói:

"Cái chung đó mới được đặt hơn một năm nay thôi. Khi trước không có chung, phật tử cứ mỗi lần cầu siêu, cúng sao giải hạn là mang vàng mã lên chùa, đi khắp nơi trong chùa để đốt. Đốt ngoài sân chưa đủ có người mang ra sau hậu viện để đốt. Có lần cháy lan ra tịnh thất của các vị thiền sư, cũng may lúc đó chùa có nhiều người, nhanh chóng dập tắt đám cháy không có thiệt hại gì lớn và may mắn là không có vị sư nào nhập thất khi đó. Sau này, thấy nguy hiểm quá nên phật tử mới mang cái chung ấy về chùa, để có nơi hóa vàng, tránh gây ra hỏa hoạn"

"Bạch thầy ! sao không để bảng cấm phật tử đốt giấy áo giấy tiền luôn vậy thầy?" tôi thắc mắc gợi ý.

"Chùa chỉ có thể cấm họ dùng lửa trong rừng do có nguy cơ cháy rừng. Đốt vàng mã là niềm tin truyền thống từ bao đời nay, ăn sâu vào tiềm thức của phật tử làm sao mà cấm được. Họ cũng đâu làm gì sai để mình cấm" Vị thiền sư đáp. Ngài từ tốn thưởng thức một ngụm trà và tiếp "Khi con cho phép, như đặt một cái chung hóa vàng ở đó, còn có thể hướng dẫn và theo dõi họ thực hiện sao cho đúng, cho an toàn, tiết kiệm và không phô trương. Còn nếu con cấm họ, họ âm thầm thực hiện nhiều khi còn để lại hậu quả to lớn hơn."

"Dạ ! Vì vậy, nên các thầy mới tổ chức cho họ các buổi lễ, cho họ hóa vàng, cúng sao, giải hạn, xin xăm, xem bói...v...v... là để thuận theo chúng sinh, hướng dẫn các giá trị của thiện niệm. Rồi từ đó hướng dẫn họ nhận biết được việc nào nên làm việc nào là mê tín đúng không thầy" Tôi tiếp lời và may mắn là thầy gật đầu đồng tình: "Đúng rồi, Đức phật không có những nghi thức đó, những vị theo truyền thống bắc tông lấy tư tưởng thuận theo chúng sinh từng thời kỳ mà giáo hóa, nên các vị cũng thuận theo văn hóa truyền thống của nơi đó mà tổ chức các nghi lễ cho phù hợp với lời dạy của Đức Phật, hướng dẫn họ thực hành những thiện nghiệp thông qua những nghi lễ đó"

"Tại sao Đức Phật không cho đệ tử xem bói, xem tướng, phong thủy hay các hoạt động đoán vận mệnh?" Tôi hỏi vị thiền sư. 

"Phước đức có nhân duyên của phước đức, tai nạn có nhân duyên của tai nạn. Nếu con hiểu được, mọi việc có nhân duyên của nó thì tìm hiểu việc của tương lai hay xem phong thủy là không cần thiết. Con sẽ bị bám chấp vào cái tương lai đó, vào cái mong muốn đạt được điều gì đó mà phong thủy mang lại. Có phải lúc nào tâm của con cũng muốn xem điều đó có xảy ra hay không? Nếu là đều tốt thì tâm mong chờ, nếu là điều xấu thì tâm sợ hãi. Từ cái tâm đó, lại sinh ra các hành động thái hóa, mê tín... làm con đánh mất phút giây hiện tại mà con đang có."

"Vậy tại sao, một số chùa vẫn tổ chức những hoạt động như vậy, các sư thầy không sợ người ta nói đạo phật là mê tín?" tôi tiếp tục thắc mắc.

"Con người vốn dĩ là nhiều đau khổ, khi tâm con đau khổ thì làm sao con thấy được chánh pháp. Vì thế, mong muốn con thấy được chánh pháp, việc đầu tiên là làm tâm con bớt đau khổ từ niềm tin nơi chính mình. Như việc chùa không cho đốt vàng mã, người ta có tự đốt không? Cho đốt để "an tâm" rồi từ đó mới gieo mầm chánh pháp trong tâm của mỗi người. Con cho phép thì con phải chấp nhận bị người ta nói! Điều này nó cũng vô thường, đủ duyên thì người ta nói và đủ duyên người ta cũng sẽ hiểu"

Thiền sư ngưng một chút rồi tiếp tục ví dụ: "Con có biết về câu chuyện, một người mẹ ôm đứa con đã chết đến tìm Đức Phật nhờ ngài cứu sống nó dậy không?" "Dạ ! con có biết" tôi nhớ lại và trả lời vị thiền sư. "Nếu lúc đó, Đức Phật cho bà ấy biết về quy luật có sinh ắt có tử thì liệu rằng người phụ nữ ấy có chấp nhận pháp đó chăng?" "Dạ ! có lẽ là không" "Đúng vậy, ngài bảo với người phụ nữ là ngài có thể cứu sống đứa bé với một điều kiện là phải tìm được một gia đình chưa từng có người chết và xin họ một hạt cải. Lúc ấy, người phụ nữ có một hy vọng, an tâm vì tin tưởng vào bậc toàn năng có thể cứu sống con mình và đi tìm hạt cải theo lời của Đức Phật. Đến khi mệt mỏi vì không tìm được nhà nào mà chưa từng chứng kiến người thân đã mất, lúc ấy bà mới tiếp nhận chánh pháp mà Đức Phật thuyết giảng, giúp cho bà vượt qua được khổ đau khi mất con" Đây là một câu chuyện "vô úy thí" (làm cho người khác yên tâm) trong Phật Giáo. "Khi con làm cho tâm người khác an vì con công nhận giá trị mà họ làm, họ mới chấp nhận lắng nghe, lúc đó con mới có thể gieo mần chánh pháp vào tâm của họ"

Khi nghe lời dạy của vị thiền sư, tôi hiểu rõ hơn về việc đa phần các vị cao tăng, thường chọn con đường chữa bệnh để độ sinh. Đúng thật là chỉ có trải qua đau khổ thì người ta mới chịu nhìn lại bản thân và tìm đến đạo. Cũng chỉ giúp họ vượt qua đau khổ "an tâm" thì lúc đó họ mới lắng nghe chánh pháp.

"Lúc nãy, thầy có bảo là họ cũng đâu làm gì sai, vậy theo thầy việc đốt vàng mã cho người đã mất thì thế nào, thưa thầy?" tôi thắc mắc hỏi.

"Việc đốt vàng mã đã có từ lâu đời trong các dịp lễ, tết, rằm hoặc cúng giỗ tổ tiên. Đây là một biểu tượng con người gửi gắm phương tiện, vật chất cho thế giới tâm linh, là cách để biểu hiện sự liên kết giữa người còn sống với thế giới vô hình. Phong tục này xuất phát từ văn hóa Trung Hoa, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của người Việt. Nó cũng xuất hiện trong nền văn hóa khác của các quốc gia như Ai Cập, Thái Lan, Nhật Bản...

Ngày xưa, quan niệm xuất phát từ giới quý tộc bởi mới có câu nói " giàu có sinh lễ nghĩa". họ tùy táng tiền vàng theo người chết với hy vọng là người chết tiếp tục sống sung túc giàu có ở thế giới bên kia. Quan niệm của người Ai Cập Cổ Đại thì cho rằng cái chết là sự bắt đầu một cuộc sống mới ở thế giới khác. Vì thế họ cho xây dựng kim tự tháp nguy nga, tráng lệ và chôn theo các vị Pharaon rất nhiều của cải. Thậm chí ở Trung Hoa vào đời nhà Chu còn có tục tuẫn táng, chôn sống vợ con, người hầu, bộ hạ theo người chết. Lúc bấy giờ trong giới nho sĩ lên án hành động dã man, vô nhân đạo này rất gay gắt. Thì họ lại chuyển sang làm các hình nộm, hình nhân. Xây dựng các nhà mồ nguy nga, tráng lệ với quan điểm "Âm thịnh dương thới" quan niệm này còn được giữ cho đến ngày nay. Khi Tần Thủy Hoàng lên làm vua, thấy phong tục này quá tốn kém, lãng phí nên ban bố sắc lệnh cấm tùy táng bằng vật phẩm, thay vào đó là tượng trưng như tiền giả, vàng giả.... và hình thức này phát triển rất thịnh vào thời nhà Đường."

"Vậy những việc trộm mộ nói đến trong các phim ảnh của Trung Quốc hay Ai Cập là phản ánh văn hóa xã hội tùy táng này đúng không thầy" Tôi xen ngang cho thầy có thời gian uống miếng nước ăn miếng bánh để tiếp tục câu chuyện.

Thầy gật đầu và tiếp tục "Có một khoản thời gian Phật Giáo tại Trung Hoa rất thịnh. Thấy được những tác hại của việc làm vàng mã... cũng như quan niệm sai lầm trong tập tục mai táng, các sư thầy lên án những hủ tục này. Phật tử thời ấy dần dần bỏ thói quen sử dụng vàng mã, hình nhân giấy trong các nghi lễ của người đã mất. Thời kỳ này ảnh hưởng rất lớn đến những người kinh doanh, sinh sống bằng nghề làm vàng mã.

"Có một câu chuyện kể lại rằng Vương Luân là dòng dõi của Vương Dũ (được xem như ông tổ của nghề vàng mã), vì không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một, nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã, bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch bí mật chết giả, bằng cách để người bạn thân đó giả vờ đau ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương Luân loan tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm bỏ vào quan tài chờ ngày an táng. Nhưng sự thật thì người bạn của Vương Luân vẫn còn sống, tuy ở trong quan tài nhưng vẫn có lỗ trống ở dưới đáy để thở và đưa thức ăn vào. Đến ngày đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình, phúng điếu nhộn nhịp, Vương Luân đem giấy tiền vàng mã và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình nhân thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện cho người bạn thân. Sau đó ông ta đốt hết giấy tiền vàng mã và hình nhân thế mạng.

Khi đốt xong thì quan tài tự nhiên rung động, ai nấy đều ngỡ ngàng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra. Người bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất cảm tạ và thuật lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn ông ta trở về cõi trần, nên ông ta mới được sống lại.

Mọi người đều tin là thật và tin tức được loan truyền rộng rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó lại được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ mã lại làm giàu một cách nhanh chóng và phổ biến sang các nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam. Mãi sau này do cạnh tranh trong kinh doanh nên sự việc mới được bại lộ.

Chính vì thế, tục đốt vàng mã đã ăn sâu vào tiềm thức của con người qua nhiều thế hệ, không thể bỏ được trong một thời gian ngắn. Các vị đại đức trong phật giáo và các tôn giáo khác cũng thường xuyên khuyến cáo về việc không nên đốt vàng mã. Nhưng cũng chỉ hạn chế một phần nào thôi, còn cấm và bỏ hoàn toàn thì ảnh hưởng nhiều vấn đề trong xã hội nên cũng chưa thể thực hiện được."

Thiền sư lại ôn tồn tiếp tục "Nói không sai, không có nghĩa là nó đúng. Ban đầu mục đích của việc đốt vàng mã là để mong cầu sự sung túc cho người đã mất, là một cách để thể hiện tấm lòng của người còn sống. Nếu chỉ dừng lại ở mức độ là biểu tượng, dùng để hướng dẫn con cháu về giá trị của lòng biết ơn, tưởng nhớ đến người đã khuất. Tránh thái hóa lãng phí, giữ gìn môi trường và những người sản xuất vàng mã hay đồ cúng, sử dụng những vật liệu đảm bảo sức khỏe không chạy theo lợi nhuận. Thì văn hóa này được giữ gìn một cách hợp lý, nó vẫn là một nét đẹp trong văn hóa tin ngưỡng dân gian"

"Luật nhân quả là pháp mà Đức Phật đã nhìn thấy được từ sự vận hành tự nhiên của vũ trụ bằng pháp nhãn của ngài, và truyền dạy lại cho nhân loại biết, để vận dụng mà làm những việc thiện lành. Năng lượng của tư duy và hành động phải song hành cùng nhau, Nếu việc cúng kiếng hoặc các nghi thức tâm linh là biểu tượng của tư duy thì vẫn chưa đủ, cần kết hợp với hành động cho đi. Muốn cho bản thân hay người đã khuất được ấm no thì đem lại sự ấm no cho người khác, muốn sung túc thì bố thí tài vật, muốn khỏe mạnh thì hãy giúp cho người khác có sức khỏe, muốn an lành thì để cho người khác được an lành. Đó là những quy luật bất biến của vũ trụ. Lúc này, thì phong thủy, cúng sao giải hạn hay đốt vàng mã nó chỉ đơn thuần là biểu tượng. Có cũng tốt, không có cũng được, không đúng và cũng không sai."

"Người ta hay nói Phật tại tâm cũng phản ánh một điều là, Đạo Phật không chủ trương cúng kiếng hay thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng. Không chủ trương, không có nghĩa là các nghi thức này là sai, không cần thiết hay làm theo cách qua loa xuềnh xoàng. Ở một giá trị nào đó thì nó rất cần thiết cho hoạt động tín ngưỡng, niềm tin và giữ gìn các giá trị văn hóa trong gia đình, dân gian và tôn giáo. Thông qua các nghi thức người ta hiểu rõ hơn về các giá trị mà nó mang lại. Từ đó lấy làm tư duy căn bản, phương châm trong cuộc sống trong quá trình làm người hay tu tập. Như việc cúng giỗ, đâu phải cứ làm hoành tráng, linh đình là người mất được lợi lạc đâu. Nhưng thông qua việc chỉnh chu, tinh tế phù hợp với điều kiện và lễ nghi truyền thống của mỗi gia đình. Để lại biết bao nhiêu giá trị tốt đẹp trong văn hóa, những bài học cho con cháu và tâm hồn của những người còn sống, thì tại sao mình lại không làm."

Kết thúc trò chuyện với thiền sư, tôi chấp tay lạy tạ thiền sư "A Di Đà Phật" ! Sau khi trò chuyện với thiền sư, tôi cảm thấy bản thân mình thật cố chấp. Có thể tôi không tin vào việc đốt vàng mã, không tin vào bói toán, phong thủy. Đó là chuyện của tôi, nhưng trước kia tôi luôn dùng lý lẽ, sự hiểu biết của mình để phản bác niềm tin của người khác. Rồi lại gây ra tranh cãi không đáng có. Tại sao tôi không tôn trọng niềm tin của người khác và có cái nhìn khách quan hơn. Như thiền sư đã nói "Nói không sai, không có nghĩa là đúng" tôn trọng không có nghĩa là đồng tình, ta có thể lên án sự thái hóa nhưng đồng tình với giá trị văn hóa mà nó mang lại. Người ta có thể làm một việc mà bản thân tôi cho là vô nghĩa, nhưng đó là quyền của họ, họ làm có ý nghĩa của riêng họ, để họ an tâm, từ cái an tâm đó người ta lại phát triển cái thiện tâm, thì lý do gì tôi lại chống đối hay phản bác. Bản thân mình cũng làm biết bao nhiêu việc mà người khác nhìn vào cũng thấy vô nghĩa đấy thôi.

Tóm lại, đã là biểu tượng thì không thể nói là nó cần thiết hay là không, nếu việc đốt vàng mã, coi bói, xem phong thủy, cúng kiếng, cúng sao giải hạn...v...v... mà đem lại được giá trị tốt đẹp, những bài học giá trị cho bản thân, gia đình, xã hội... thì đó là nét đẹp văn hóa cần được duy trì. Còn nếu nó gây ra những hệ lụy cho xã hội, ủng hộ sự lừa đảo, mê tín dị đoan không đáng có thì chúng ta nên dần dần tránh xa.


“Bạn có suy nghĩ gì về chủ đề này, hãy chia sẻ ở phần bình luận dưới bài viết (nhấn thông báo cho tôi trước khi xuất bản bình luận để nhận cập nhật bình luận mới nhất), mỗi ý kiến của bạn là động lực dành cho tác giả. Nếu bạn thấy bài viết có giá trị hãy chia sẻ để nhiều người biết đến bài viết ! Chân thành cảm ơn sự đóng gớp của các bạn 

Tác giả: Nam DK
Biên soạn: từ các nguồn sưu tầm.




Đăng nhận xét

0 Nhận xét