HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ
THIÊN CẤM SƠN - NÚI CẤM
Bước vào hành trình chinh phục vùng Thất Sơn, An Giang là bước vào hành trình tâm linh cùng với những câu chuyện huyền bí. Trong đó Thiên Cấm Sơn hay (Thiên Gấm Sơn) hiện lên sừng sững, như một tấm màn lớn che phủ những bí ẩn cổ xưa, nơi mà linh hồn trời đất giao thoa, hội tụ những linh lực vô hình. Chỉ cần bước chân vào Núi Cấm, ta như lạc vào thế giới siêu nhiên đầy bí ẩn. Hãy thư giãn, buông xuống những lời phán xét và cùng bước vào hành trình trải nghiệm thế giới vô vi.
SƠ NÉT VỀ THẤT SƠN
1. Núi Cấm - Thiên Cấm Sơn (Thiên Gấm Sơn)
2. Núi Dài Năm Giếng - Ngũ Hồ Sơn,
3. Núi Cô Tô - Phụng Hoàng Sơn,
4. Núi Dài - Ngọa Long Sơn,
5. Núi Tuọng - Liên Hoa Sơn,
6. Núi Két - Anh Vũ Sơn,
7. Núi Nước - Thủy Đài Sơn.
Đây là bảy ngọn núi của Thất Sơn. Tại sao lại chọn bảy ngọn núi này? Trong khi cả vùng có hơn ba mươi ngọn núi. Có vài ngọn núi trong Thất Sơn nhỏ hơn rất nhiều so với những ngọn núi khác. Có phải được chọn do địa lý, địa hình hay vì một lý do nào đó mà hiện nay vẫn chưa ai hiểu được ý của người xưa. Chỉ biết, đó là nội dung được ghi chép trong một số tài liệu sử ký.
Có một câu nói "Tu Phật Tới Phú Yên, Tu Tiên Lên Bảy Núi" và các tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương, gọi bảy núi là bửu sơn. Có thông tin cho rằng đây là bảy ngọn núi mà Đức Phật Thầy Tây An đưa ra và gọi là vùng Thất Sơn, có thể nơi đây có linh khí phù hợp cho việc tu đạo. Tóm lại, đó cũng chỉ là suy đoán. Chưa có ai và cũng chưa có bằng chứng cụ thể nào xác nhận lý luận trên.
Như đã trình bày, ngoài bảy ngọn núi được gọi là Thất Sơn, thì vùng đất này còn có các núi khác nhu: Hoa Thê Sơn (Ba Thê), Thoại Sơn (Núi Sập), Phù Sơn (Núi Nổi), Học Lãnh Sơn (Núi Sam)... kết hợp với hệ thống sông, rạch... tạo thành bức tranh sơn thủy cho An Giang. Không chỉ đẹp bởi thiên nhiên hùng vĩ. Vùng đất này còn là nơi giữ gìn những điều huyền bí của thế giới vô vi (thế giới vô hình). Mỗi một ngọn núi nơi đây đều gắn liền với những truyền thuyết của riêng mình. Gớp một phần vào bức tranh tâm linh hoàn chỉnh của vùng đất linh thiêng An Giang.
GIỚI THIỆU NÚI CẤM - THIÊN CẤM SƠN (HAY THIÊN GẤM SƠN)
Tên gọi núi Cấm
Núi Cấm - Thiên Cấm được xuất hiện bằng văn tự đầu tiên vào khoản cuối thế kỷ 19 trong "Đại Nam Nhất Thống Chí". Trước đó, ngọn núi có tên gọi là Đoài Tốn trong "Gia Định Thành Thông Chí" của Trịnh Hoài Đức. Núi Cấm còn được gọi là Núi Gấm hay Thiên Cẩm Sơn, tên gọi này nói lên vẻ "đẹp gấm hoa cẩm tự" của ngọn núi này.
Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc tên gọi của ngọn núi:
Giả thuyết thứ nhất: Vào thời, Đức Phật Thầy Tây An, ngài cấm tín đồ trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lên ngọn núi này cất nhà, lập am, bởi sẽ làm ô ế ngọn núi thiêng. Nên mọi người gọi là núi Cấm.
Giả thuyết thứ hai: khi vua Gia Long tức Nguyễn Phúc Ánh đã ở đây trong quá trình bị quân Tây Sơn truy nã. Để đảm bảo bí mật, Binh lính của ngài phao tin là núi có nhiều dã thú, yêu ma quỷ quái và cấm người dân lên núi.
Giả thuyết khác: Trong bài viết của Nguyễn Văn Hầu thì cho rằng sỡ dĩ ngọn núi có tên núi cấm vì là sào huyệt của tướng cướp Đơn Hùng Tín (tên thật là Lê Văn Tín, quê ở Cao Lãnh, Đồng Tháp). Để đảm bảo an toàn, chính quyền Pháp cấm không cho người dân lên núi.
Sơ nét về Đơn Hùng Tín: Ông là tướng cướp khét tiếng ở vùng lục tỉnh Nam Kỳ và cả campuchia thời bấy giờ. Tương truyền ông học võ và bùa chú ở núi Cấm, sau là núi Tà Lơn ở Campuchia, luyện được "thiên thư bí quyết" đạn bắn không lùng, đao kiếm không thể xâm hại. Sau có tin bị pháp bao vây bắn chết ở Mỹ Tho, do bị đàn em phản bội, mật báo. Theo lời của cụ Vương Hồng Sển cũng có mặt ở Mỹ Tho lúc đó thì Đơn Hùng Tín không chết, mà khi đó quân Pháp đốt ghe, xác chết là người giả theo kế "Kim tiền thoát xác". Nhiều người cho rằng Mỹ Tho mới đúng là sào huyện của Đơn Hùng Tín và giả thuyết này về tên gọi núi Cấm vẫn còn gây tranh cãi.
Thông tin địa lý của núi Cấm:
Núi Cấm là một trong những ngọn núi linh thiêng của vùng Thất Sơn, thuộc xã An Hảo, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Núi Cấm là một ngọn núi cao nhất vùng DBSCL cao hơn 700m và chu vi rộng khoảng 28.600m bao gồm khoản năm Vồ (đỉnh núi) chính:
Cao nhất là Vồ Bồ Hong (tương truyền do có nhiều Bồ Hong sinh sống), trên vồ có tượng ngọc hoàng đại đế.
Vồ Đầu, đỉnh đầu tiền của núi tính từ phía bắc.
Vồ Bà, nơi có điện thờ bà chúa xứ.
Vồ Ông Bướm (hay Ông Voi), tương truyền có hai người Khmer lưu lạc đến đây cư trú nên Vồ lấy tên hai ông.
Vồ Thiên Tuế, do trên đây có nhiều cây thiên tuế.
Ngoài ra, trên núi Cấm còn nhiều vồ khác: Vồ chư thần, cây quế, mồ côi, đá dựng, bạch tượng, pháo binh...
Núi Cấm được ví như bồng lai tiên cảnh:
Trên Núi có hai ngôi chùa là Chùa Vạn Linh và chùa Phật Lớn nổi tiếng với bức tượng Phật Di Lặc cao 33,6m ngự tại đỉnh núi. Tạo nên không khí linh thiêng cho ngọn núi.
Dọc theo lối mòn lên núi có các danh thắng: suối Thanh Long , suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm. Khí hậu mát mẻ, cảnh sắc thiên nhiên được mô tả như tranh vẽ. Chân núi có khu du lịch Lâm Viên, với nhiều hoạt động vui chơi, giải trí, ẩm thực phục vụ cho du khách.
Trải nghiệm đi xe máy lên núi là một trong những trải nghiệm đáng nhớ dành cho du khách thích mạo hiểm. Đi bằng xe máy lên núi, du khách có thể trải nghiệm thiên nhiên, không khí và nhìn ngắm cảnh đẹp xung quanh. Hiện nay, ngoài xe máy thì du khách có thể đi lên núi bằng hệ thống cáp treo được đưa vào phục vụ năm 2015.
Hãy thắc dây an toàn, không phải để đi cáp treo hay trải nghiệm xe máy, chúng ta tạm biệt thế giới hữu hình và chuẩn bị hành trình khám phá thế giới vô hình của THIÊN CẤM SƠN.
Chuyến đi thứ nhất: của nhà khoa học Lưu Văn Lang (tức Bác Vật Lang)
vào thập niên 1930.
Một câu chuyện huyền bí, ly kỳ được ông Trần Văn Phúc, một chuyên gia biết nhiều về vùng đất này kể lại: có một đoàn thám hiểm các hang ở dãy Thất Sơn. Sau khi hoàn thành thám hiểm nhiều hang, đến hang ở núi Cấm, đoàn thám hiểm thấy có vẻ sâu và nguy hiểm nên cho khỉ xuống trước. Người ta buộc dây vào cổ, cho khỉ xuống hang. Khỉ đi khá lâu, càng lâu, càng sâu rồi im bặt, không còn động tĩnh. Mọi người kéo dây lên thì cảm giác rất nhẹ. Đến lúc hết dây không thấy chú khỉ đâu nữa. Một điều khó hiểu là đầu dây có dấu vết ai đó đã tháo dây.
Đoàn đã nghĩ ra cách cho con chó xuống. Họ cũng buộc dây vào cổ như chú khỉ trước, kết quả cũng độ sâu đó rồi im hẳn, dấu dây cũng bị tháo như cũ và cũng không thấy chú chó đâu. Lúc bấy giờ, cả đoàn nhao lên, không biết hiện tượng gì lạ lùng đã xảy ra dưới hang? Phần lo sợ vì hiện tượng lạ, phần tò mò muốn biết dưới hang có gì mà kỳ quái đến thế, cả đoàn cứ loay hoay chưa biết phải làm sao?
Sau một hồi, cuối cùng Bác Vật Lang tình nguyện một mình đơn độc xuống hang. Sau một hồi tính toán, cả đoàn lập kế hoạch để cho Bác Vật Lang xuống được an toàn, bằng cách thường xuyên giật dây để báo hiệu hai chiều. Đến khi hết dây, lúc này cũng không thấy tín hiệu giật dây của Bác Vật Lang, mọi người thực sự lo lắng. Họ liên tục giật nhưng dưới hang vẫn im lặng đến đáng sợ... Cho đến tận nửa đêm, vẫn không thấy tín hiệu dưới hang. Ngoài hang thì các động vật ăn đêm hoạt động gầm rú, làm cho cảnh tượng sợ hãi vô cùng. Không ai dám bỏ đi vì Bác Vật Lang vẫn còn ở dưới hang. Cả đêm, không nghĩ ra cách gì khác, họ cứ thấp thỏm và chờ đợi. Nhiều người đã nghĩ tới cảnh tượng xấu nhất diễn ra. Cho tới khi trời dần sáng ra, mọi người đang loay hoay tính phương án khác... thì bỗng nhiên có một bóng người lồm cồm bò lên. Có người phát hiện ra đó chính là Bác Vật Lang và thét lên "A Bác Vật Lang. Đúng Bác Vật Lang rồi" và mọi người mừng rỡ vô cùng.
Tuy Bác Vật Lang còn sống và bò lên được miệng hang, nhưng các thành viên trong đoàn cũng không biết trong hang có gì. Vì Bác Vật Lang chỉ ú ớ được vài tiếng rồi không nói được gì thêm. Sau đó, Bác Vật Lang được đưa lên Sài Gòn chữa trị, một thời gian sau đó, sức khỏe phục hồi nhưng vẫn không thể nói được. Các bác sỹ cũng bó tay không hiểu nguyên nhân vì sao. Khi có đoàn đại diện 12 bô lão Bửu Sơn Kỳ Hương lên thăm. khi các vị bô lão hỏi: Thưa ông, ông đã thấy gì trong ấy? thì Bác Vật Lang bổng nói được và nói được đúng có một câu: "dưới núi là một mâm cơm dọn sẵn...trên núi là một cái lồng bàn... dở ra là ăn... các ông ráng tu" Cho đến khi qua đời, thế là mọi bí mật trong hang vẫn là bí ẩn với mọi người và đi theo Bác Vật Lang về nơi chín suối. Chính vì thế người ta đã đặt hang này theo tên ông.
Theo lời kể của bác Tám Hoanh một niên lão của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo có cho biết thêm về chuyến đi của Bác Vật Lang. Khi được ra Viện, Bác Vật Lang có đi về vùng Hòa Khánh, Sa Đéc dùng cơm và nghỉ ở nhà ân nhân là Ông Bộ Phụng. Sáng hôm sau, ông trao cho ông Bộ Phụng một phong bì viết rõ ràng mắt thấy tai nghe trong địa huyệt dặn dò rất kỹ, chỉ một mình ông Bộ Phụng được biết nội dung trong bức thư, nói ra cả gia đình sẽ gặp đại họa. Sau này, Ông Bộ Phụng có trách nhiệm xuống làng Hòa Hảo để trao thư lại cho người truyền thừa của Đức Phật Thầy Tây An là Đức Huỳnh Giáo Chủ vào năm 1940. Ông Tám có cơ duyên được thăm ông Bộ Phụng khi đang bị bệnh nặng, trước khi qua đời, được ông Bộ Phụng nói cho biết đại khái nội dung bức thư và sau này được Đức Thầy tiết lộ và dặn dò đến năm 1975 mới được phép tiết lộ cho người có duyên được nghe.
Nội dung đại khái của bức thư mà ông Tám kể lại: Ông Bác Vật có mang theo bình dưỡng khí, đèn rọi gắn trên trán, túi nhỏ đựng lương khô và chai nước lọc. Sau khi vào hang, Ông đi vào đường hầm rộng nhưng thấp, ánh sáng lờ mờ, phải khom lưng mới đi xuống được. Theo lối bậc thang dẫn sâu xuống đất, đi được một đoạn thì không còn thấy lối đi, phía trước là vùng tối đen. Bên cạnh một vách đá, Ông tìm thấy một thang dây bện bằng mây rừng. Ông theo thang dây xuống tới đáy huyệt, trần địa huyệt càng lúc càng cao lên, lối đi rộng ra. Sức ép không khí đè nặng vào người phải dùng đến bình dưỡng khí mới thở thoải mái. Thật bất ngờ, nền địa huyệt được trải bằng vàng thay cho đá cụi, ông lụm một thỏi vàng bỏ vào túi để phân tích về sau. đi thêm khoản 1 tiếng đồng hồ, ông đến một hầm đá rộng và thật bất ngờ ông thấy cung vàng điện ngọc xây cất sang sát nhau trong một vùng vô cùng rộng lớn, trạm trổ bằng đá hoa cương. Ông đi vào trong, trúng ngay ngự phòng, trang trí giường thất bửu và đồ dùng bằng ngọc trạm trổ tinh vi. trên vách treo một số tranh họa, khung ảnh được làm bằng vàng khối, có chạm bài từ theo lối chữ cổ xưa. lúc này ông cảm thấy rất mệt mỏi nên quay trở ra. (Có rất nhiều chi tiết trong bức thư vẫn được giữ bí mật)
Chuyến thứ hai: là của kỹ sư công binh Mỹ tên là Tim Sim vào năm 1968.
Anh Ban một người bạn của Tim Sim cùng làm trong quân đội đã kể về chuyến thám hiểm huyền bí của Bác Vật Lang cho anh nghe, khiến cho Tim Sim rất hứng thú, tò mò sắm sửa vật dụng cần thiết và lên đường thám hiểm. Được sự hướng dẫn của bác anh Ban là tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo đưa Tim Sim đến lối vào địa huyệt. Vì bận công vụ nên anh Ban trở lại Sa Đéc, Tim Sim vào một mình. Lúc đó chỉ nghĩ, khoản vài ngày thì Tim Sim trở về. Nhưng đến ngày thứ Năm không nghe được tin tức gì, anh Ban bắt đầu lo lắng, sốt ruột không biết anh có xảy ra chuyện gì hay không? Ngày thứ bảy, thứ tám, Tim Sim vẫn không có tin tức gì.
Đến ngày thứ mười thì nghe được tin Tim Sim đã ra khỏi hang. Anh Ban vội lái xe lên núi Cấm để đón anh. Trông Tim Sim rất mệt mỏi, xanh xao, thân hình thì gầy đi thấy rõ. Suốt chặng đường về, Tim Sim rất suy tư, không nói gì. Về đến Sa Đéc thì anh mang trong túi ra một thỏi vàng, cùng với anh Ban đi phân tích. Thỏi vàng thuộc loại vàng găm cán mỏng, dài khoản 2,5 phân, phình ra ở giữa và nhọn về hai đầu, có lỗ nhỏ thông hơi. Khi tháo lớp vàng găm bên ngoài, bên trong chứa loại chất dẻo. Sau đó Tim Sim đem về Sài Gòn để chuyên gia mỹ phân tích. Được biết đó là một loại hóa chất có thể phát nổ khi tiếp xúc với nhiệt hoặc điện. Tim Sim cho biết, trong địa huyệt rất rộng anh chưa khám phá hết và sẽ quay lại lần thứ hai. Ngoài ra, anh không nói gì thêm. Anh có chụp lại tất cả hình ảnh trong địa huyệt, nhưng kì lạ khi rửa phim thì ảnh toàn là màu trắng.
Ba tháng sau, Tim Sim quay lại địa huyệt nhưng không tìm được cửa hang, Tim Sim đã cố gắng tìm suốt nhiều ngày nhưng không thấy, nên đành xuống núi và về Mỹ. Sau này thì Tim Sim không còn trở lại Việt Nam.
Mãi một thời gian dài không liên lạc, Tim Sim mới gửi cho Ban một bức thư. Là một tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo, anh Ban rất sững sốt khi thấy nội dung bức thư có tám chữ trong sấm giảng của Đức Thầy "thất sơn tiếng nổ, quy cổ diệt kim"
Nội dung bức thư nói về việc Tim Sim đem thỏi vàng về Mỹ, nhờ một nhóm bạn thân làm trong ngành khoa học để nghiên cứu hóa chất trong thỏi vàng. Đó là một loại hóa chất lạ khoa học chưa được biết đến. Sau một vài thí nghiệm thì cho kết quả: nó sẽ phát nổ khi tiếp xúc với nhiệt hoặc dòng điện, sức công phá của nó rất kinh hoàng. Sau khi phát nổ, một lượng lớn vi phân tử trong chất dẻo được giải phóng, khi tiếp xúc với ánh mặt trời sẽ tạo thành bức xạ vô cùng lớn trong không khí, sẽ phá hủy cấu tạo của các hợp chất kim loại.
Tóm lại khi chất này phát nổ, các vật dụng bằng kim loại sẽ không còn sử dụng được nữa bao gồm các vũ khí, phương tiện tối tân nhất hiện nay, "diệt kim" !
Trong sấm giảng của Đức Thầy, "quy cổ diệt kim" nó còn có nghĩa là diệt bỏ những cái mới đưa về những cái cũ, cái gốc của loài người. hay nói cách khác là tận diệt cái buổi hạ ngươn, lặp lại đời thượng ngươn thánh đức.
Nhóm nghiên cứu của Tim Sim tạm gọi chất này là chất điệt kim loại, họ cũng không dám đi sâu nghiên cứu vì không tưởng tượng được mức độ khủng khiếp của nó. Cũng như quyết định giữ kín bí mật này, vì họ biết hậu quả sẽ rất lớn nếu thông tin này được tiết lộ ra ngoài hoặc lọt vào tay kẻ xấu. Trong thơ Tim Sim đề cập là rất may mắn đã tìm được nơi phù hợp chôn lại thỏi vàng, và cũng giải ngũ để dành thời gian tu hành.
Ngoài những thông tin về thỏi vàng ở huyệt địa, chuyến thám hiểm của Tim Sim cũng như Bác Vật Lang, gặp những ai, có chuyện gì đã xảy ra dưới huyệt địa đến nay vẫn còn là bí ẩn.
Chuyến thứ ba: vào thập niên 1940. Đức Thầy lệnh cho Ông Lê Văn Tốt (biệt danh Tẩu Mã A) đi giao thư trong lòng núi cấm. (tuy là hành trình trước Tim Sim, nhưng Đức Thầy dặn dò điều gì được nói, điều gì không được nói và thời điểm được nói. Nên mãi đến 1973 thì chuyến hành trình của Ông Tốt mới được biết đến).
Ông Lê Văn Tốt sau khi quy y với Đức Phật Thầy tức Đức Huỳnh Giáo Chú, trở thành tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo. Ông được Đức Thầy giao cho công việc đưa thư trong vùng. Một hôm, Đức Thầy dặn ông đi may một bộ áo dài mới và mua một cái khăn choàng để đi công chuyện. Khi có đồ mới, Ông Tốt lên trình và Đức Thầy dặn dò giặc sạch sẽ khi có việc sẽ dùng đến.
Vài ngày sau, Đức Thầy giao cho ông Tốt hai lá thư rồi nói:
"Ông hãy mặc đồ mới, đem hai lá thư này, một đưa cho bà sáu ở núi Tượng, còn một lá thư đem vào lòng núi Cấm đưa cho ông quân sư giùm tôi". "Ông lên núi Trà Sư, đến cốc của ông Đạo Xom nghỉ ở đó, rồi sẽ có người tới dẫn ông đi" Đức Thầy dặn.
Theo lời của Đức Phật Thầy, ông Tốt đến Nhà Bàng lên núi Trà Sư, được ông Đạo Xom đón và tiếp đãi ăn uống và nghỉ đêm ở đó. Khoản 4h sáng hôm sau, ông Đạo Xom gọi ông Tốt dậy và nói: "Người dẫn đường cho ông đến rồi" người dẫn đường chính là Đức Cử Đa, râu dài tới ngực, tướng mạo phi thường, một vị tiên trưởng đã đắc đạo tại vùng Thất Sơn (mãi sau này khi trở về thì ông Tốt mới được Đức Thầy cho biết). Khởi hành từ núi Trà Sư đến gặp Bà Sáu ở núi Tượng, tức Liên Hoa Sơn. Ông Tốt đưa cho Bà Sáu bức thư của Đức Thầy. Bà Sáu trang trọng để lá thư lên bàn thờ, thắp nhang lễ lạy, xong mở lá thư ra xem. Xem xong, Bà Sáu nói: "Nay có lệnh, hai cậu phải ra đi" nói xong, bà Sáu dẫn ra hai cậu nhỏ, một cậu mặt xanh, một cậu mặt đỏ giao cho Ông tốt và Đức Cử Đa dẫn vào núi Cấm.
Đến xế chiều, cả bốn người đến Vồ Bồ Hong và theo lối mòn nhỏ rất khó đi, có khi phải bò mới đi được. Đến khoảng giữa núi, thì có một cái hang lớn, mọi người đi vào trong. Trong hang rất tối, đi được một khoản thì thấy hai ông hổ đứng ngang đường. Đức Cử Đa thấy vậy, liền bảo "Có lệnh, đi xuống", hai ông Hổ vội nép qua hai bên cho bốn người đi qua. Tiếp tục đi thêm một khoản đường nữa thì bắt đầu có ánh sáng, cảnh vật bắt đầu dần dần hiện ra.
Một bầu trời, một khoản không rộng lớn. Mặt đất toàn là vàng thỏi, trải đều khắp nơi tạo thành ánh vàng, sáng rực rỡ. Đi vào trong, thì gặp một con rắn khổng lồ nằm chắn lối đi. Rắn to đến mức, ông Tốt có với tay cũng chưa chạm được tới lưng của rắn, vảy rắn thì to như cái mâm. Nhìn không thấy đầu và đuôi của rắn đâu cả. Đức Cử Đa bảo với rắn "Có lệnh, đi xuống" lập tức con rắn thu nhỏ lại và lưng thì xẹp xuống cho mọi người đi qua.
Đi đến cuối đoạn đường, có một cái cổng lớn được làm bằng vàng, trên cổng có để dòng chữ "NHẤT TRỤ TAM QUAN MÔN" Ánh sáng vàng chói, làm cho Cổng tam quan càng thêm trang nghiêm. Qua khỏi cổng tam quan, bầu trời càng thêm sáng, mọi chi tiết được thấy rất rõ, đất chiếu sáng màu vàng rực. Phía trước, có một vị lớn tuổi mặc áo dài đen, đầu đội khăn đã đứng chờ sẵn. "Kính chào quý vị, vừa mới tới" và ông mời tất cả vào nhà trại dùng cơm. Ông Tốt thấy một nồi đất nhỏ đựng cơm thì bèn nghĩ "đi cả ngày trời, ai cũng đói bụng mà cái nồi cơm nhỏ thế này sao mà ăn đủ". Khi bới, cơm có màu nâu giống gạo lức, mùi thơm ngào ngạt. Điều khiến ông Tốt ngạc nhiên là nồi cơm tự đầy trở lại, nên mọi người được ăn no.
Cơm nước xong, Đức Cử Đa bảo mọi người đi tiếp. Đến một cái giếng nước rất trong, Đức Cử Đa và ông Tốt lấy tay bụm nước cho hai cậu nhỏ uống, rồi hai người uống sau. Nước có mùi thom và rất mát, Ông Tốt chưa được uống loại nào ngon đến vậy. Mọi người ngồi nghỉ chân, Ông Tốt nhìn ngắm xung quanh là cánh đồng với giống cỏ rất lạ và tỏa mùi hương tinh khiết. Nghỉ ngơi xong, mọi người tiếp tục lên đường. Cảnh vật phía xa xa dần dần được hiện ra, lúc này trên không trung một tiếng nói vang rền "Sớ của quốc trạng đến rồi" như một lời thông báo. Phía trước là con sông rất lớn, nước trong và chảy rất mạnh. Ông tốt nhìn xuống, thì thấy một con cá sấu khổng lồ đang nằm im. Ông tốt chợt nhớ đến Ông Năm Chèo trong truyền thuyết mà mọi người hay nói đến. Đi dọc theo bờ sông, có một cây cột màu đồng rất lớn, rộng khoản 2 người ôm, chiều dài dường như vô tận. Ông tốt thắc mắc bèn hỏi Đức Cử Đa.
"Cây này là cây gì vậy, ông?" - "Đây là cây cột cờ, sau này khi dựng lên, cả năm châu đều nhìn thấy" Đức Cử Đa nói.
Nhìn qua bên kia bờ sông, thấy một cây cầu bằng vàng rộng lớn, chiều dài thì không thấy đầu kia của cây cầu đâu. Ông Tốt thắc mắc: "Cây cầu này đi về đâu vậy ông?" - "Cây cầu này, đi về núi Tà Lơn" Đức Cử Đa đáp.
Khi đi gần đến cổng, nhìn thấy đền vàng trước mắt, ông Tốt chỉ biết nghiêng người nhìn ngắm cảnh tượng hoành tráng trước mặt, nó vượt xa trí tưởng tượng của ông. Ví như tất cả các cung điện của vua chúa ở thế gian từ trước cho đến nay, không có nơi nào sánh được. Vẻ uy nghi, trang nghiêm, tráng lệ với ánh sáng vàng rực chói lóa, không có một loại ngôn từ nào của thế gian có thể diễn tả hết vẻ đẹp của đền vàng. Phía trước, có một cụ già, mặc áo dài đen, đầu đội khăn đứng chờ sẵn. Cụ vòng tay chào và nói: "tôi được lệnh đến đây, để tiếp nghinh các vị". Đức Cử Đa giao hai cậu nhỏ mặt đỏ và mặt xanh cho cụ đẫn vào trong. Phía trong đền, quan cảnh rất tôn nghiêm. Có một cái bàn dài, Đức Thầy ngồi chính giữa, có hai người đứng hai bên. Ông Tốt bán tín bán nghi vào mắt mình: "có phải Đức Thầy không? sao Đức Thầy lại ở đây? nếu là Đức Thầy, thì sai mình đưa thư đến đây làm gì? bao nhiêu thắc mắc hiện lên trong đầu...
Đức Thầy ôn tồn đi ra, vỗ vai ông Tốt, "ông không biết tôi sao?' Lúc này, Ông Tốt đã xác định, đây chính là bậc đạo sư của mình. "Dạ, con bạch Thầy. Khi con đi, thấy Thầy còn ở nhà, nên con còn đang suy nghĩ" Nói xong, ông Tốt trao thư cho Đức Thầy. Đức Thầy vỗ vai và bảo "Ông làm xong nhiệm vụ rồi, lệnh cho ông tham quan một thời gian rồi về" Đức Thầy dặn thêm: "từ lúc này, ông thấy sao thì hay như vậy và không được nói ra bất kì điều gì. Còn những điều ông thấy trước đây, ông cũng phải đợi một thời gian, ông mới được nói ra để mọi người biết mà ráng tu hành". "Dạ ! con xin tuân theo lệnh thầy" ông Tốt cung kính cúi đầu.
Giải thích: Tuy người gửi thư và người nhận thư đều là Đức Thầy. Nhưng người gửi thư là Đức Phật Thầy ở tổ đình còn người nhận thư là quân sư của Điện Vàng. Điều này cũng nói lên, đối với các bậc đắc đạo. Lời nói và hành vi phàm nhân khó có thể hiểu nổi. "thiên cơ bất khả lộ"
Ông Tốt được quân sư cho đi tham quan, nên gặp rất nhiều cảnh huyền vi, kỳ lạ, mà trước giờ không thể nào tưởng tượng được, khiến cho ông thích thú không thể quên. Được khoản một ngày thì quân sư ông Tốt trở về. Theo chân Đức Cử Đa trên đường về, ông chứng kiến được chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng lạ. Khi đưa ông Tốt ra ngoài thì Đức Cử Đa cũng biến mất. Trời cũng đã gần tối, ông Tốt thấy một ngôi chùa gần đó, nên đến hỏi thăm thì được biết, ông đang ở núi Cô Tô - Phụng Hoàng Sơn. Ông xuống núi và về lại tổ đình.
Khi về tổ đình, ông Tốt thấy Đức Thầy ở đó. Đức Thầy cũng vỗ vai ông, y như lúc trong điện vàng và nói: "Giỏi lắm, ông làm xong nhiệm vụ rồi, thôi về nhà đi" Ông Tốt cúi đầu chào Thầy, kỉnh lễ tam bảo và vào trong chào Đức Ông và Đức Bà. Ông Tốt hỏi nhỏ Đức Ông: "Mấy ngày nay, Đức Thầy ở nhà hay có đi đâu không Đức Ông?" thì Đức Ông ngạc nhiên bảo: "Mấy ngày nay, Đức Thầy ở nhà chứ có đi đâu" Lúc này, Đức Thầy liền dặn "Ông thấy sao hay vậy, không được nói ra nghen" và Ông Tốt rất ngạc nhiên, khi Đức Thầy cho biết, người dẫn đường cho ông chính là Đức Cử Đa. Tuy ông biết, người dẫn đường cho ông, không phải là người bình thường... nhưng không thể ngờ lại là một bậc tiên đã đắc đạo.
Sau này, vì quá thích cảnh vật trong đền vàng, nên ông Tốt có xin với Đức Thầy cho vào đó ở tu luôn. Nhưng Đức Thầy không cho "ông ở trên này, có nhiều công việc phải làm cho thầy lắm". Có lần, ông lén Đức Thầy đi vào núi Cấm để trở lại đền vàng, vì ông nghĩ mình còn nhớ đường. Nhưng nhiều ngày, mãi vẫn không tìm được đường vào cửa hang. Lúc này, ông Tốt mới hiểu, không có lệnh của Đức Thầy thì không bao giờ ông có thể xuống được.
Ba chuyến hành trình vào lòng núi Cấm tuy khác nhau về thời gian và mục đích của chuyến đi. Nhưng có vẻ chuyến đi của ông Tốt là rõ ràng nhất. Cả ba chuyến đi đều có một điểm chung là có một thế giới khác trong lòng núi Cấm, thế giới đó được bao phủ bởi vàng và ngọc. Những điều thuộc về thiên cơ thì không được tiết lộ. Sở dĩ đến ngày nay, mọi người mơ hồ biết được những thông tin trên đều là do sự cho phép của Đức Phật Thầy, tiết lộ một phần cho người hữu duyên. Cả ba đều chí tâm tu hành khi trở về cho dù họ tu theo pháp môn hay tôn giáo nào thì việc làm lành, lánh dữ, sửa đổi tâm tính vẫn là tôn chỉ chung để làm người hay học đạo.
Thêm một điều mà bản thân mình biết chia sẻ thêm với bạn đọc:
Mình có nghe một người anh, có năng lực xuất hồn và anh đã đi vào lòng núi Cấm. Anh bảo với tôi, anh thấy xung quanh toàn là vàng, bên trong rộng lớn vô cùng. Phía xa anh thấy một tòa Lâu đài rộng lớn, rất là đẹp. Anh tò mò tiến lại. Ngay lúc đó, xuất hiện hai vị có thân hình rất to lớn, chặn anh lại và bảo: "Mau rời khỏi đây ngay". Anh nói nhìn gương mặt và lời nói của hai vị đó rất đáng sợ, Về sau anh cũng không dám tự ý xuất hồn đi vào đó nữa.
Ngoài ra, những anh em có năng lực đặc biệt, khi nói chuyện cũng hay nói về chủ đề của Núi Cấm và đa số đều tin rằng Núi Cấm như một cái trường học tâm linh lớn dành cho những người học đạo. Vì thế, không có gì lạ khi ta nghe nói có vị tiên nhân này, có vị thánh nhân nọ xuất hiện tại đây, và cũng không ngạc nhiên khi vùng Thất Sơn có quá nhiều hiện tượng kỳ bí.
“Bạn có suy nghĩ gì về chủ đề này, hãy chia sẻ ở phần bình luận dưới bài viết (nhấn thông báo cho tôi trước khi xuất bản bình luận để nhận cập nhật bình luận mới nhất), mỗi ý kiến của bạn là động lực dành cho tác giả. Nếu bạn thấy bài viết có giá trị hãy chia sẻ để nhiều người biết đến bài viết ! Chân thành cảm ơn sự đóng gớp của các bạn”
0 Nhận xét